
Tại sao Hà Nội sợ những người chống đối?
Suốt từ ngày 24 tháng 2 đến nay, liên tiếp nhiều tin, kể cả tin từ các cơ quan ngôn luận của chính quyền Hà Nội, đã được đưa ra về việc chính quyền đột nhiên tới Nhà Chung ở Huế, vây bắt Linh mục Nguyễn Văn Lý, rồi đưa ông đi “an trí” ở nhà thờ giáo xứ Bến Củi. Ở một khía cạnh nào đó, việc tấn công này nằm trong “đợt tổng tấn công” mới của Hà Nội vào các nhân vật bất phục, nhưng ở một khía cạnh khác, sự công khai tố cáo và vu khống cho Linh mục Lý đã đặt ra câu hỏi là tại sao đột nhiên Hà Nội “sợ” các nhà tranh đấu cho dân chủ đến thế?
Trước hết phải nói là vụ đàn áp Linh mục Lý lần này quyết liệt và công khai hơn mọi cuộc đàn áp từ trước đến nay. Theo tin tức từ các hãng thông tấn ngoại quốc có mặt ở Việt Nam thì lần đầu tiên, vụ lục soát và tịch thâu tài sản của Cha Lý đã được công khai chiếu trên truyền hình. Theo Thông tấn xã Reuters, những hình ảnh trên truyền hình cho thấy cảnh công an lục soát văn phòng của Linh Mục Lý, tịch thâu 200 kg (440lb) tài liệu, nhiều máy vi tính, máy in, điện thoại di động và hơn 130 thẻ điện thoại di động. Ngay sau đó, báo chí đồng loạt đưa ra những lời “buộc tội”.
Hầu hết báo chí đăng tải bản tin của thông tấn xã nhà nước trong đó nói rằng “Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên-Huế đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Lý về tội: Tuyên truyền chống đối Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo Điểm C, Khoản 1, Điều 88 - Bộ luật Hình sự. Cùng ngày, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế cũng ra quyết định thay đổi nơi quản chế hành chính đối với bị can Lý.”
Riêng báo Nhân Dân đã để nguyên nửa trang để viết một bài bình luận về vụ này. Bài báo của cơ quan ngôn luận chính thức của đảng Cộng sản Việt Nam không những đã vênh vang khoe thành tích vào được Tổ chức Mậu dịch Thế giới WTO và được các quốc gia Á châu đề cử vào ghế không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, còn lớn tiếng khẳng định “Không chỉ đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bè bạn quốc tế hân hoan, tự hào về một Việt Nam hôm nay mà cả những người trước đây còn có cái nhìn thiên lệch, thiếu hiểu biết về con đường đi lên của dân tộc ta cũng đã tin tưởng và kỳ vọng về một tương lai tươi sáng của Tổ quốc ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng CS Việt Nam.” (Sic) Viện dẫn đó như là một lý do, Nhân Dân lên án Linh mục Nguyễn Văn Lý “Vậy nhưng vẫn còn một số đối tượng cực đoan cố tình nhắm mắt, bưng tai trước những gì Tổ quốc và nhân dân ta đạt được, cấu kết với các phần tử phản động ở nước ngoài, phá hoại sự nghiệp xây dựng, phát triển của đất nước, phản bội lại lợi ích của toàn dân tộc. Cầm đầu và chủ mưu trong nhóm này ở Thừa Thiên-Huế là Nguyễn Văn Lý.” Sau khi kể lể “tội danh” của Cha Lý và nói đến “sự khoan hồng” của nhà nước cho phép Cha Lý được trở về sống quản thúc tại Nhà Chung Huế, tờ Nhân Dân đã kết tội Cha Lý như sau “Nghiêm trọng hơn, từ đầu năm 2006, Nguyễn Văn Lý đã móc nối, câu kết với một số đối tượng cơ hội chính trị, cực đoan phản động trong và ngoài nước để cho ra đời cái gọi là ‘Tuyên ngôn kêu gọi quyền thành lập và hoạt động của các đảng phái tại Việt Nam’. Sau đó là bản ‘Tuyên ngôn tự do dân chủ cho Việt Nam năm 2006’, kêu gọi ký tên tham gia để tập hợp lực lượng lật đổ chính quyền. Ngày 8-4-2006, Nguyễn Văn Lý thành lập nhóm 8406 do Nguyễn Văn Lý cùng với Ðỗ Nam Hải ở thành phố Hồ Chí Minh và Trần Anh Kim ở Thái Bình làm đại diện ba miền. Chúng mạo danh hơn 1.980 người trong danh sách 2.000 người ký tên vào bản "tuyên ngôn" này.”
Một cơ quan ngôn luận của một chế độ tự hào đang vững mạnh mà đã không những “chụp mũ” một số các nhân vật bất đồng chính kiến nhỏ nhoi về những “tội tày trời” như “kêu gọi tập hợp lực lượng để lật đổ chính quyền” thì quả là một điều khó hiểu. Hơn thế, Nhân Dân còn dám nói là các vị này “mạo danh 1980 người trong số 2,000 người ký tên vào bản tuyên ngôn” chống chế độ, một lời vu khống khi những người ký tên đã công khai đưa tên tuổi, địa chỉ và sẵn sàng nhận hành vi bất khuất đó.
Có lẽ chính trong sự vu khống và nói láo này chúng ta đã hiểu rõ hơn một phần nào lý do tại sao Hà Nội “sợ” những người bất phục như Cha Lý. Mặc dầu không có phương tiện, không có vũ khí, những nhân vật này đã thu hút được một số đông đảo người dân bình thường sẵn sàng ký tên vào một Tuyên ngôn đòi hỏi tự do dân chủ. Hơn thế, Hà Nội cũng hiểu là một chế độ như chế độ của họ không thể có thay đổi hòa bình mà chỉ có thể thay đổi qua một cuộc cách mạng, dầu là cách mạng không đổ máu như Cách Mạng Nhung.
Phong trào dân chủ qua hoạt động của những người như Cha Lý đã làm cho Hà Nội thêm lo sợ vì họ đã “học” được bài học Đông Âu. Hà Nội chưa quên hoạt động của những người như kịch tác gia Vaclav Havel, người mà qua Tuyên ngôn của Hiến chương 77, viết ra để một phần chống lại việc một ban nhạc psychedelic bị cầm tù, đã đứng ra lên án chế độ. Ông đã dùng ngòi bút để giúp hình thành một phong trào chống đối, để nói lên “quyền hành của những người không có quyền hành” (Power of the Powerless), và tìm ý nghĩa cho một thời Hậu chủ nghĩa độc tài tòan trị (Post totalitarianism), trong đó con người có thể “sống trong sự nói láo”. Ngay cả khi mạnh nhất, khối Hiến chương 77 cũng không lớn lắm, và ảnh hưởng của họ chỉ nằm trong giới trí thức, nhưng gặp thời, khối này đã nhanh chóng bành trướng thành đảng Civic Forum. Và thời điểm gia nhập WTO cũng có thể là lúc mà chế độ ở Hà Nội đang gặp lúc giao thời, khi phải thay đổi vì áp lực của bên ngoài.
Ngày nay, đối với Hà Nội, những nhóm như khối 8406 chẳng khác gì nhóm Hiến chương 77 đối với chế độ cộng sản ở Đông Âu, những mầm móng mà gặp thời có thể sẽ trở thành những lực lượng lật đổ chế độ. Và đó là lý do Hà nội sợ. Nhưng sau cùng, như ông Vincent Brossel, đại diện của Tổ chức Phóng Viên Không Biên giới đã nhận xét: “Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để cổ võ cho các quyền tự do của họ, nhưng chúng tôi biết rằng một giải pháp sẽ đến từ trong nội bộ Việt Nam, hy vọng một ngày nào đó, đảng đương quyền tại Việt Nam sẽ nhận thức được rằng dân chủ không phải là một điều nguy hiểm, mà là một quyền tự nhiên của người dân Việt Nam.”
Toàn Chân
Suốt từ ngày 24 tháng 2 đến nay, liên tiếp nhiều tin, kể cả tin từ các cơ quan ngôn luận của chính quyền Hà Nội, đã được đưa ra về việc chính quyền đột nhiên tới Nhà Chung ở Huế, vây bắt Linh mục Nguyễn Văn Lý, rồi đưa ông đi “an trí” ở nhà thờ giáo xứ Bến Củi. Ở một khía cạnh nào đó, việc tấn công này nằm trong “đợt tổng tấn công” mới của Hà Nội vào các nhân vật bất phục, nhưng ở một khía cạnh khác, sự công khai tố cáo và vu khống cho Linh mục Lý đã đặt ra câu hỏi là tại sao đột nhiên Hà Nội “sợ” các nhà tranh đấu cho dân chủ đến thế?
Trước hết phải nói là vụ đàn áp Linh mục Lý lần này quyết liệt và công khai hơn mọi cuộc đàn áp từ trước đến nay. Theo tin tức từ các hãng thông tấn ngoại quốc có mặt ở Việt Nam thì lần đầu tiên, vụ lục soát và tịch thâu tài sản của Cha Lý đã được công khai chiếu trên truyền hình. Theo Thông tấn xã Reuters, những hình ảnh trên truyền hình cho thấy cảnh công an lục soát văn phòng của Linh Mục Lý, tịch thâu 200 kg (440lb) tài liệu, nhiều máy vi tính, máy in, điện thoại di động và hơn 130 thẻ điện thoại di động. Ngay sau đó, báo chí đồng loạt đưa ra những lời “buộc tội”.
Hầu hết báo chí đăng tải bản tin của thông tấn xã nhà nước trong đó nói rằng “Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên-Huế đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Lý về tội: Tuyên truyền chống đối Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo Điểm C, Khoản 1, Điều 88 - Bộ luật Hình sự. Cùng ngày, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế cũng ra quyết định thay đổi nơi quản chế hành chính đối với bị can Lý.”
Riêng báo Nhân Dân đã để nguyên nửa trang để viết một bài bình luận về vụ này. Bài báo của cơ quan ngôn luận chính thức của đảng Cộng sản Việt Nam không những đã vênh vang khoe thành tích vào được Tổ chức Mậu dịch Thế giới WTO và được các quốc gia Á châu đề cử vào ghế không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, còn lớn tiếng khẳng định “Không chỉ đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bè bạn quốc tế hân hoan, tự hào về một Việt Nam hôm nay mà cả những người trước đây còn có cái nhìn thiên lệch, thiếu hiểu biết về con đường đi lên của dân tộc ta cũng đã tin tưởng và kỳ vọng về một tương lai tươi sáng của Tổ quốc ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng CS Việt Nam.” (Sic) Viện dẫn đó như là một lý do, Nhân Dân lên án Linh mục Nguyễn Văn Lý “Vậy nhưng vẫn còn một số đối tượng cực đoan cố tình nhắm mắt, bưng tai trước những gì Tổ quốc và nhân dân ta đạt được, cấu kết với các phần tử phản động ở nước ngoài, phá hoại sự nghiệp xây dựng, phát triển của đất nước, phản bội lại lợi ích của toàn dân tộc. Cầm đầu và chủ mưu trong nhóm này ở Thừa Thiên-Huế là Nguyễn Văn Lý.” Sau khi kể lể “tội danh” của Cha Lý và nói đến “sự khoan hồng” của nhà nước cho phép Cha Lý được trở về sống quản thúc tại Nhà Chung Huế, tờ Nhân Dân đã kết tội Cha Lý như sau “Nghiêm trọng hơn, từ đầu năm 2006, Nguyễn Văn Lý đã móc nối, câu kết với một số đối tượng cơ hội chính trị, cực đoan phản động trong và ngoài nước để cho ra đời cái gọi là ‘Tuyên ngôn kêu gọi quyền thành lập và hoạt động của các đảng phái tại Việt Nam’. Sau đó là bản ‘Tuyên ngôn tự do dân chủ cho Việt Nam năm 2006’, kêu gọi ký tên tham gia để tập hợp lực lượng lật đổ chính quyền. Ngày 8-4-2006, Nguyễn Văn Lý thành lập nhóm 8406 do Nguyễn Văn Lý cùng với Ðỗ Nam Hải ở thành phố Hồ Chí Minh và Trần Anh Kim ở Thái Bình làm đại diện ba miền. Chúng mạo danh hơn 1.980 người trong danh sách 2.000 người ký tên vào bản "tuyên ngôn" này.”
Một cơ quan ngôn luận của một chế độ tự hào đang vững mạnh mà đã không những “chụp mũ” một số các nhân vật bất đồng chính kiến nhỏ nhoi về những “tội tày trời” như “kêu gọi tập hợp lực lượng để lật đổ chính quyền” thì quả là một điều khó hiểu. Hơn thế, Nhân Dân còn dám nói là các vị này “mạo danh 1980 người trong số 2,000 người ký tên vào bản tuyên ngôn” chống chế độ, một lời vu khống khi những người ký tên đã công khai đưa tên tuổi, địa chỉ và sẵn sàng nhận hành vi bất khuất đó.
Có lẽ chính trong sự vu khống và nói láo này chúng ta đã hiểu rõ hơn một phần nào lý do tại sao Hà Nội “sợ” những người bất phục như Cha Lý. Mặc dầu không có phương tiện, không có vũ khí, những nhân vật này đã thu hút được một số đông đảo người dân bình thường sẵn sàng ký tên vào một Tuyên ngôn đòi hỏi tự do dân chủ. Hơn thế, Hà Nội cũng hiểu là một chế độ như chế độ của họ không thể có thay đổi hòa bình mà chỉ có thể thay đổi qua một cuộc cách mạng, dầu là cách mạng không đổ máu như Cách Mạng Nhung.
Phong trào dân chủ qua hoạt động của những người như Cha Lý đã làm cho Hà Nội thêm lo sợ vì họ đã “học” được bài học Đông Âu. Hà Nội chưa quên hoạt động của những người như kịch tác gia Vaclav Havel, người mà qua Tuyên ngôn của Hiến chương 77, viết ra để một phần chống lại việc một ban nhạc psychedelic bị cầm tù, đã đứng ra lên án chế độ. Ông đã dùng ngòi bút để giúp hình thành một phong trào chống đối, để nói lên “quyền hành của những người không có quyền hành” (Power of the Powerless), và tìm ý nghĩa cho một thời Hậu chủ nghĩa độc tài tòan trị (Post totalitarianism), trong đó con người có thể “sống trong sự nói láo”. Ngay cả khi mạnh nhất, khối Hiến chương 77 cũng không lớn lắm, và ảnh hưởng của họ chỉ nằm trong giới trí thức, nhưng gặp thời, khối này đã nhanh chóng bành trướng thành đảng Civic Forum. Và thời điểm gia nhập WTO cũng có thể là lúc mà chế độ ở Hà Nội đang gặp lúc giao thời, khi phải thay đổi vì áp lực của bên ngoài.
Ngày nay, đối với Hà Nội, những nhóm như khối 8406 chẳng khác gì nhóm Hiến chương 77 đối với chế độ cộng sản ở Đông Âu, những mầm móng mà gặp thời có thể sẽ trở thành những lực lượng lật đổ chế độ. Và đó là lý do Hà nội sợ. Nhưng sau cùng, như ông Vincent Brossel, đại diện của Tổ chức Phóng Viên Không Biên giới đã nhận xét: “Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để cổ võ cho các quyền tự do của họ, nhưng chúng tôi biết rằng một giải pháp sẽ đến từ trong nội bộ Việt Nam, hy vọng một ngày nào đó, đảng đương quyền tại Việt Nam sẽ nhận thức được rằng dân chủ không phải là một điều nguy hiểm, mà là một quyền tự nhiên của người dân Việt Nam.”
Toàn Chân
No comments:
Post a Comment