
Chỉ có sáu tháng để khỏi thất bại ở Iraq?
Đó là kết luận của một toán sĩ quan cao cấp hiện là cố vấn cho Tướng David Petraeus, chỉ huy trưởng lực lượng Hoa Kỳ ở Iraq. Theo các vị sĩ quan này, nếu trong thời gian sáu tháng đó không có hiệu quả trông thấy, thì chúng ta sẽ chứng kiến sự suy sụp ủng hộ từ các chính trị gia và quần chúng Hoa Kỳ, và triển vọng những chiếc trực thăng di tản trên Green Zone, khu an toàn của lực lượng Hoa Kỳ, sẽ trở thành sự thực.
“Bộ tham mưu Baghdad”
Nhóm các sĩ quan này, theo nhật báo The Guardian, xuất bản ở Anh, là những chiến binh lão luyện trong ngành chống phản loạn, bao gồm một số những nhân vật khá đặc biệt, và nhiệm vụ của họ là thực thi chiến lược “một con đường tiến lên” mà Tổng thống George W. Bush loan báo hôm 10 tháng 12 năm 2006.
Nhóm được mệnh danh là “Baghdad Brain Trust” này bao gồm nhiều kinh nghiệm cả về chiến đấu lẫn học vị. Trong số đó có Đại tá Peter Mansoor, chánh văn phòng của Tướng Petraeus, một cựu tư lệnh một sư đoàn cơ giới nhưng cũng có bằng tiến sĩ về lịch sử bộ binh; Đại tá R. McMaster, tác giả của một cuốn sách nổi tiếng chỉ trích chiến tranh Việt Nam cũng như chiến tranh Iraq và là một sĩ quan chỉ huy lỗi lạc của ngành chống khủng bố; Trung tá David Kilcullen, mượn từ quân đội Úc, một chuyên gia về Hồi giáo quá khích; và Đại tá Michael Meese, con trai của cựu bộ trưởng tư pháp Edwin Meese, vốn là thành viên của Nhóm Nghiên cứu Iraq.
Được biết trong suốt mấy tuần qua nhóm này đã làm việc ngày đêm để tìm cách giải quyết một số những vấn đề cố hữu trong một cuộc chạy đua với thời gian. Một cựu viên chức cao cấp của chính phủ Bush đã giải thích vấn đề của họ như sau “Họ biết họ đang làm việc với áp lực thời gian. Họ biết là đến mùa thu năm nay họ sẽ bắt đầu nghe nói nhiều đến “kế hoạch B”, một lối nói văn hoa để chỉ chuyện tháo chạy. Họ biết là cơ hội của họ chỉ có khoảng sáu tháng. Và họ cũng biết là tình hình sẽ ngày càng khó khăn hơn”. “Bầu không khí trong nhóm rất căng thẳng. Họ làm việc thâu đêm suốt sáng. Và uống rất nhiều tách nước trà trong các cuộc thảo luận với các nhóm Iraq,” viên chức trên giải thích. “Nhưng họ vẫn còn đang cố tìm ra một kế hoạch. Tổng thống muốn thấy có tiến bộ. Nhưng họ thì đang tự hỏi thật sự tổng thống muốn gì? Kế hoạch của họ thay đổi từng phút từng giờ để đáp ứng với nhu cầu chiến trường.”
Những trở ngại chính mà họ phải đối đầu bao gồm: Thiếu lính, liên minh quốc tế đang ngày càng tan rã, sự gia tăng bạo động ở miền nam Iraq một khi quân đội Anh rút lui, tinh thần sẽ bị ảnh hưởng một khi số tử vong gia tăng, và việc Washington hay Baghdad có thể mất tinh thần, bỏ cuộc.
Những vấn đề nan giải
Vấn đề khó khăn nhất là thiếu lính mặc dầu Tổng thống Bush đã cho tăng viện. Một sĩ quan Hoa Kỳ ở Iraq đã nhận xét “Chúng tôi không có đủ lính để làm cho ra lẽ một cuộc chiến chống phản loạn chứ đừng nói gì đến một đợt tăng quân quan trọng. Chữ “surge” thực ra là một từ dùng sai chỗ. Về chiến lược và chiến thuật, nào có phải là một sự tăng cường đúng nghĩa đâu”. Theo cuốn cẩm nang chiến trường mới của quân đội Hoa kỳ vừa được chính Tướng Petraeus sửa đổi, tỷ số tốt nhất giữa “binh sĩ và công tác” cho một chiến dịch đối với riêng thủ đô Baghdad đòi hỏi 120,000 binh sĩ. Tổng số quân lực, kể cả lực lượng Iraq khó tín nhiệm được, cũng chưa bằng con số đó. Bên ngoài Baghdad, sự thiếu hụt còn lớn hơn nhiều.
Thiếu tá John Nagel, một người tín cẩn của Tướng Petraeus và là đồng tác giả của cuốn cẩm nang, khi nói chuyện với Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở San Diego hôm tháng rồi đã giải thích “Việc tăng quân là điều tối cần thiết nếu chúng ta muốn chiến thắng... Tỷ số cứ một quân nhân cho 50 thường dân trong các khu chiến sự gay go nhất là tỷ số cần thiết để chiến thắng trong một cuộc chiến chống phiến loạn.”
Đã thế, vấn đề nhân sự thiếu hụt còn thêm trầm trọng hơn vì số nhân viên dân sự tình nguyện từ Ngũ Giác Đài, Bộ Tài chánh và Bộ Ngoại giao đang ngày một giảm. Hôm cuối tháng 2, Ngũ Giác Đài đã lên tiếng yêu cầu Bộ Ngoại giao đưa thêm nhân viên tới giúp đỡ, nhất là nhân viên cho chương trình tái thiết và các chương trình viện trợ dân sự mà Tổng thống Bush đã hứa.
Vấn đề thứ nhì là sự tan rã của lực lượng liên quân. Quyết định mới đây của Anh Quốc giảm thiểu quân số ở miền nam Iraq, cộng với sự rút lui sắp tới của một số các quốc gia đồng minh khác, càng làm cho toán của ông Petraeus lo ngại, nhất là khi Hoa Kỳ đang cố gắng lấy lại ưu thế ở Iraq. Việc gia tăng bạo động ở phía Nam là một chuyện chắc sẽ xẩy ra, nhất là khi một nhóm dân quân Shia thuộc đạo quân của giáo sĩ Moqtada al-Sadr bị đẩy ra khỏi Baghdad tìm về Basra. Các nguồn tin từ bộ quốc phòng Anh cho tờ Daily Telegraph biết là Hoa Kỳ sẽ có thể phải điều động thêm 6,000 binh sĩ xuống phía nam để thay thế cho lực lượng Anh.
Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng là vấn đề tinh thần quân sĩ. Với gia tăng đối đầu, số tử vong sẽ tăng vọt. Trong một thông điệp gửi đến binh sĩ khi nhậm chức, Tướng Petraeus đã ca ngợi sự hy sinh của họ và khuyến cáo là những tháng tới sẽ còn khó khăn hơn nữa. Ông nói “Chúng ta đang phục vụ ở Iraq trong một giai đoạn quyết liệt. Sánh vai cùng với các đồng đội người Iraq, chúng ta sẽ tổ chức một chiến dịch tối quan trọng để cải thiện an ninh cho dân chúng Iraq. Đây là chiến dịch một mất một còn”. Cho đến nay tinh thần của các quân nhân đang chiến đấu ở Iraq vẫn còn rất cao, nhưng chắc chắn là cuộc tranh cãi cùng sự gia tăng hoạt động của các nhóm phản chiến và sự thờ ơ của dân chúng rồi sẽ có ảnh hưởng đến tinh thần quân đội. Những vụ scandal như vụ bê bối ở Bệnh viện bộ binh Walter Reed cũng sẽ làm tinh thần quân sĩ thêm khó vững.
Trong khi đó, quân lực Hoa Kỳ cũng phải ngăn đừng cho chính phủ do phe Shia cầm đầu của Thủ tướng Nuri al-Maliki lợi dụng tình hình để củng cố vị thế, đẩy các nhóm Sunni vào bước đường cùng. Mặc dầu tuần rồi đã có được tiến bộ qua đạo luật chia sẻ tài nguyên dầu hỏa, hai phe Shia và Kurd vẫn tiếp tục chống lại việc giảm bớt chính sách loại trừ đảng Ba’ath vốn đã dẫn đến việc gạt người Sunni ra khỏi những chức vụ quan trọng. Nhóm của Tướng Petraeus nghĩ là chính phủ Iraq đã không làm đủ để đạt được mục tiêu hòa giải dân tộc mà Tổng thống Bush đã đề ra, mặc dầu họ cũng hiểu điều họ đòi hỏi ở ông Maliki là đối đầu với chính những ủng hộ viên của ông ta.
Nhưng có lẽ điều mà nhóm của Tướng Petraeus sợ nhất là ý chí chính trị ở Washington sẽ sụp đổ đúng vào lúc mà quân đội đang sắp đạt được một kết quả bộc phá trong cuộc chiến chống phản loạn, một điều đã từng xảy ra ở Việt Nam. Hơn thế, nếu đến lễ Lao Động (thứ hai đầu tiên của tháng 9, vốn là thời điểm của một năm mới chính trị của Hoa Kỳ), không thấy có hiệu quả của chiến dịch mới này thì Tổng thống Bush có thể mất quyền kiểm soát chính sách vì quốc hội, với đảng Cộng Hòa lúc đó cũng tìm cách “chạy tội” về hùa với phe Dân Chủ, sẽ buộc phải có một cuộc rút quân.
Nếu không thành thì sao?
Bà Sarah Sewall, một cựu phụ tá bộ trưởng quốc phòng dưới thời Tổng thống Clinton và nay là chuyên viên về bang giao quốc tế của viện đại học Harvard, đã tả Tướng Petraeus như là “một vị tướng tài ba và có thực lực”, nhưng cũng khuyến cáo là ông đang phải đối đầu với một tình huống “khó thắng”. Sự thiếu quân số có nghĩa là những điều mà chính Tướng Petraeus đã coi như là tối cần thiết, an ninh và chia sẻ công tác để giúp tạo khí phách cho dân chúng và thúc đẩy hòa giải dân tộc, không thể thực thi được. Trong khi đó lãnh đạo hoặc quá yếu hoặc tham nhũng ở Washington hay Baghdad cũng có thể làm ông không hoàn tất nổi nhiệm vụ.
Với sự lo ngại là những ngày cuối của cuộc chiến Iraq sắp gần kề, nhiều người bắt đầu so sánh Tướng Petraeus với Tướng Creighton Abrams, người lên thay thế Tướng William Westmoreland mà chiến dịch càn quét đã bị cuộc tấn công Mậu Thân chứng tỏ là hoàn toàn thất bại. Abrams là người đã chủ trương chiến lược “giải tỏa và đóng chốt” (clear and hold) của tướng Petraeus. Trong quân sử Hoa Kỳ, ông đã thua quân đội Bắc Việt vì Washington muốn “tháo chạy”, một sự có thể xảy ra cho Tướng Petraeus.
Nhưng ở một khía cạnh khác, Tướng Petraeus lại giống Đại tá John Paul Vann, một nhân vật đầy tự tin và gây nhiều tranh cãi được Neil Sheehan tả trong cuốn The Bright Shining Lie. Ông Vann là một người sẵn sàng nói lên những điều mình tin là đúng. Ông chết ở Việt Nam năm 1972. Tướng Petraeus đã từng bị đẩy về làm chỉ huy trưởng Trường Chỉ Huy Tham Mưu của quân đội Hoa Kỳ cũng chỉ vì cái tính nói thẳng.
Khi ra điều trần trước quốc hội hôm tháng Giêng, Tướng Petraeus đã nói rõ là vào cuối mùa hè năm nay ông sẽ báo cáo với Quốc Hội và nhân dân Hoa Kỳ, chứ không chỉ với Ngũ giác đài và Tổng thống về kết quả của công việc. “Tôi xin bảo đảm với quí vị là nếu tôi xác định được là chiến lược mới không thể thành công, tôi sẽ loan báo nhận xét đó,” ông nói. Thái độ này có thể giúp cho Tướng Petraeus có rất nhiều sức mạnh chính trị cũng như nhờ vậy khá nhiều quyền hành. Tòa Bạch Ốc hiện rất cần ông bởi nếu ông bỏ cuộc từ chức thì chính phủ sẽ không còn có hy vọng thuyết phục được ai về Iraq nữa. Nhưng theo bà Sarah Sewall thì Tướng Petraeus dầu sao chăng nữa cũng là một sĩ quan chứ không phải là một nhà dân cử, và ông sẽ không từ chức.
Nhưng sau cùng, tuy không phải là người ra chính sách mà chỉ là người thực hiện chính sách, ông Petraeus có thể là người mà theo bà Sewall sẽ đóng góp cho quân đội cũng như cho Hoa Kỳ không phải là qua chiến thắng mà qua việc nói lên sự thật về Iraq. Đó có thể là di sản của ông cho lịch sử Hoa kỳ. Nếu quả rồi sẽ như vậy thì ít nhất lần này “khi đồng minh tháo chạy” còn có một người dám đứng lên nói ra sự thật dầu là sự thật mất lòng.
“Bộ tham mưu Baghdad”
Nhóm các sĩ quan này, theo nhật báo The Guardian, xuất bản ở Anh, là những chiến binh lão luyện trong ngành chống phản loạn, bao gồm một số những nhân vật khá đặc biệt, và nhiệm vụ của họ là thực thi chiến lược “một con đường tiến lên” mà Tổng thống George W. Bush loan báo hôm 10 tháng 12 năm 2006.
Nhóm được mệnh danh là “Baghdad Brain Trust” này bao gồm nhiều kinh nghiệm cả về chiến đấu lẫn học vị. Trong số đó có Đại tá Peter Mansoor, chánh văn phòng của Tướng Petraeus, một cựu tư lệnh một sư đoàn cơ giới nhưng cũng có bằng tiến sĩ về lịch sử bộ binh; Đại tá R. McMaster, tác giả của một cuốn sách nổi tiếng chỉ trích chiến tranh Việt Nam cũng như chiến tranh Iraq và là một sĩ quan chỉ huy lỗi lạc của ngành chống khủng bố; Trung tá David Kilcullen, mượn từ quân đội Úc, một chuyên gia về Hồi giáo quá khích; và Đại tá Michael Meese, con trai của cựu bộ trưởng tư pháp Edwin Meese, vốn là thành viên của Nhóm Nghiên cứu Iraq.
Được biết trong suốt mấy tuần qua nhóm này đã làm việc ngày đêm để tìm cách giải quyết một số những vấn đề cố hữu trong một cuộc chạy đua với thời gian. Một cựu viên chức cao cấp của chính phủ Bush đã giải thích vấn đề của họ như sau “Họ biết họ đang làm việc với áp lực thời gian. Họ biết là đến mùa thu năm nay họ sẽ bắt đầu nghe nói nhiều đến “kế hoạch B”, một lối nói văn hoa để chỉ chuyện tháo chạy. Họ biết là cơ hội của họ chỉ có khoảng sáu tháng. Và họ cũng biết là tình hình sẽ ngày càng khó khăn hơn”. “Bầu không khí trong nhóm rất căng thẳng. Họ làm việc thâu đêm suốt sáng. Và uống rất nhiều tách nước trà trong các cuộc thảo luận với các nhóm Iraq,” viên chức trên giải thích. “Nhưng họ vẫn còn đang cố tìm ra một kế hoạch. Tổng thống muốn thấy có tiến bộ. Nhưng họ thì đang tự hỏi thật sự tổng thống muốn gì? Kế hoạch của họ thay đổi từng phút từng giờ để đáp ứng với nhu cầu chiến trường.”
Những trở ngại chính mà họ phải đối đầu bao gồm: Thiếu lính, liên minh quốc tế đang ngày càng tan rã, sự gia tăng bạo động ở miền nam Iraq một khi quân đội Anh rút lui, tinh thần sẽ bị ảnh hưởng một khi số tử vong gia tăng, và việc Washington hay Baghdad có thể mất tinh thần, bỏ cuộc.
Những vấn đề nan giải
Vấn đề khó khăn nhất là thiếu lính mặc dầu Tổng thống Bush đã cho tăng viện. Một sĩ quan Hoa Kỳ ở Iraq đã nhận xét “Chúng tôi không có đủ lính để làm cho ra lẽ một cuộc chiến chống phản loạn chứ đừng nói gì đến một đợt tăng quân quan trọng. Chữ “surge” thực ra là một từ dùng sai chỗ. Về chiến lược và chiến thuật, nào có phải là một sự tăng cường đúng nghĩa đâu”. Theo cuốn cẩm nang chiến trường mới của quân đội Hoa kỳ vừa được chính Tướng Petraeus sửa đổi, tỷ số tốt nhất giữa “binh sĩ và công tác” cho một chiến dịch đối với riêng thủ đô Baghdad đòi hỏi 120,000 binh sĩ. Tổng số quân lực, kể cả lực lượng Iraq khó tín nhiệm được, cũng chưa bằng con số đó. Bên ngoài Baghdad, sự thiếu hụt còn lớn hơn nhiều.
Thiếu tá John Nagel, một người tín cẩn của Tướng Petraeus và là đồng tác giả của cuốn cẩm nang, khi nói chuyện với Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở San Diego hôm tháng rồi đã giải thích “Việc tăng quân là điều tối cần thiết nếu chúng ta muốn chiến thắng... Tỷ số cứ một quân nhân cho 50 thường dân trong các khu chiến sự gay go nhất là tỷ số cần thiết để chiến thắng trong một cuộc chiến chống phiến loạn.”
Đã thế, vấn đề nhân sự thiếu hụt còn thêm trầm trọng hơn vì số nhân viên dân sự tình nguyện từ Ngũ Giác Đài, Bộ Tài chánh và Bộ Ngoại giao đang ngày một giảm. Hôm cuối tháng 2, Ngũ Giác Đài đã lên tiếng yêu cầu Bộ Ngoại giao đưa thêm nhân viên tới giúp đỡ, nhất là nhân viên cho chương trình tái thiết và các chương trình viện trợ dân sự mà Tổng thống Bush đã hứa.
Vấn đề thứ nhì là sự tan rã của lực lượng liên quân. Quyết định mới đây của Anh Quốc giảm thiểu quân số ở miền nam Iraq, cộng với sự rút lui sắp tới của một số các quốc gia đồng minh khác, càng làm cho toán của ông Petraeus lo ngại, nhất là khi Hoa Kỳ đang cố gắng lấy lại ưu thế ở Iraq. Việc gia tăng bạo động ở phía Nam là một chuyện chắc sẽ xẩy ra, nhất là khi một nhóm dân quân Shia thuộc đạo quân của giáo sĩ Moqtada al-Sadr bị đẩy ra khỏi Baghdad tìm về Basra. Các nguồn tin từ bộ quốc phòng Anh cho tờ Daily Telegraph biết là Hoa Kỳ sẽ có thể phải điều động thêm 6,000 binh sĩ xuống phía nam để thay thế cho lực lượng Anh.
Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng là vấn đề tinh thần quân sĩ. Với gia tăng đối đầu, số tử vong sẽ tăng vọt. Trong một thông điệp gửi đến binh sĩ khi nhậm chức, Tướng Petraeus đã ca ngợi sự hy sinh của họ và khuyến cáo là những tháng tới sẽ còn khó khăn hơn nữa. Ông nói “Chúng ta đang phục vụ ở Iraq trong một giai đoạn quyết liệt. Sánh vai cùng với các đồng đội người Iraq, chúng ta sẽ tổ chức một chiến dịch tối quan trọng để cải thiện an ninh cho dân chúng Iraq. Đây là chiến dịch một mất một còn”. Cho đến nay tinh thần của các quân nhân đang chiến đấu ở Iraq vẫn còn rất cao, nhưng chắc chắn là cuộc tranh cãi cùng sự gia tăng hoạt động của các nhóm phản chiến và sự thờ ơ của dân chúng rồi sẽ có ảnh hưởng đến tinh thần quân đội. Những vụ scandal như vụ bê bối ở Bệnh viện bộ binh Walter Reed cũng sẽ làm tinh thần quân sĩ thêm khó vững.
Trong khi đó, quân lực Hoa Kỳ cũng phải ngăn đừng cho chính phủ do phe Shia cầm đầu của Thủ tướng Nuri al-Maliki lợi dụng tình hình để củng cố vị thế, đẩy các nhóm Sunni vào bước đường cùng. Mặc dầu tuần rồi đã có được tiến bộ qua đạo luật chia sẻ tài nguyên dầu hỏa, hai phe Shia và Kurd vẫn tiếp tục chống lại việc giảm bớt chính sách loại trừ đảng Ba’ath vốn đã dẫn đến việc gạt người Sunni ra khỏi những chức vụ quan trọng. Nhóm của Tướng Petraeus nghĩ là chính phủ Iraq đã không làm đủ để đạt được mục tiêu hòa giải dân tộc mà Tổng thống Bush đã đề ra, mặc dầu họ cũng hiểu điều họ đòi hỏi ở ông Maliki là đối đầu với chính những ủng hộ viên của ông ta.
Nhưng có lẽ điều mà nhóm của Tướng Petraeus sợ nhất là ý chí chính trị ở Washington sẽ sụp đổ đúng vào lúc mà quân đội đang sắp đạt được một kết quả bộc phá trong cuộc chiến chống phản loạn, một điều đã từng xảy ra ở Việt Nam. Hơn thế, nếu đến lễ Lao Động (thứ hai đầu tiên của tháng 9, vốn là thời điểm của một năm mới chính trị của Hoa Kỳ), không thấy có hiệu quả của chiến dịch mới này thì Tổng thống Bush có thể mất quyền kiểm soát chính sách vì quốc hội, với đảng Cộng Hòa lúc đó cũng tìm cách “chạy tội” về hùa với phe Dân Chủ, sẽ buộc phải có một cuộc rút quân.
Nếu không thành thì sao?
Bà Sarah Sewall, một cựu phụ tá bộ trưởng quốc phòng dưới thời Tổng thống Clinton và nay là chuyên viên về bang giao quốc tế của viện đại học Harvard, đã tả Tướng Petraeus như là “một vị tướng tài ba và có thực lực”, nhưng cũng khuyến cáo là ông đang phải đối đầu với một tình huống “khó thắng”. Sự thiếu quân số có nghĩa là những điều mà chính Tướng Petraeus đã coi như là tối cần thiết, an ninh và chia sẻ công tác để giúp tạo khí phách cho dân chúng và thúc đẩy hòa giải dân tộc, không thể thực thi được. Trong khi đó lãnh đạo hoặc quá yếu hoặc tham nhũng ở Washington hay Baghdad cũng có thể làm ông không hoàn tất nổi nhiệm vụ.
Với sự lo ngại là những ngày cuối của cuộc chiến Iraq sắp gần kề, nhiều người bắt đầu so sánh Tướng Petraeus với Tướng Creighton Abrams, người lên thay thế Tướng William Westmoreland mà chiến dịch càn quét đã bị cuộc tấn công Mậu Thân chứng tỏ là hoàn toàn thất bại. Abrams là người đã chủ trương chiến lược “giải tỏa và đóng chốt” (clear and hold) của tướng Petraeus. Trong quân sử Hoa Kỳ, ông đã thua quân đội Bắc Việt vì Washington muốn “tháo chạy”, một sự có thể xảy ra cho Tướng Petraeus.
Nhưng ở một khía cạnh khác, Tướng Petraeus lại giống Đại tá John Paul Vann, một nhân vật đầy tự tin và gây nhiều tranh cãi được Neil Sheehan tả trong cuốn The Bright Shining Lie. Ông Vann là một người sẵn sàng nói lên những điều mình tin là đúng. Ông chết ở Việt Nam năm 1972. Tướng Petraeus đã từng bị đẩy về làm chỉ huy trưởng Trường Chỉ Huy Tham Mưu của quân đội Hoa Kỳ cũng chỉ vì cái tính nói thẳng.
Khi ra điều trần trước quốc hội hôm tháng Giêng, Tướng Petraeus đã nói rõ là vào cuối mùa hè năm nay ông sẽ báo cáo với Quốc Hội và nhân dân Hoa Kỳ, chứ không chỉ với Ngũ giác đài và Tổng thống về kết quả của công việc. “Tôi xin bảo đảm với quí vị là nếu tôi xác định được là chiến lược mới không thể thành công, tôi sẽ loan báo nhận xét đó,” ông nói. Thái độ này có thể giúp cho Tướng Petraeus có rất nhiều sức mạnh chính trị cũng như nhờ vậy khá nhiều quyền hành. Tòa Bạch Ốc hiện rất cần ông bởi nếu ông bỏ cuộc từ chức thì chính phủ sẽ không còn có hy vọng thuyết phục được ai về Iraq nữa. Nhưng theo bà Sarah Sewall thì Tướng Petraeus dầu sao chăng nữa cũng là một sĩ quan chứ không phải là một nhà dân cử, và ông sẽ không từ chức.
Nhưng sau cùng, tuy không phải là người ra chính sách mà chỉ là người thực hiện chính sách, ông Petraeus có thể là người mà theo bà Sewall sẽ đóng góp cho quân đội cũng như cho Hoa Kỳ không phải là qua chiến thắng mà qua việc nói lên sự thật về Iraq. Đó có thể là di sản của ông cho lịch sử Hoa kỳ. Nếu quả rồi sẽ như vậy thì ít nhất lần này “khi đồng minh tháo chạy” còn có một người dám đứng lên nói ra sự thật dầu là sự thật mất lòng.
Lê Phan
No comments:
Post a Comment