Thursday, March 15, 2007

Tham Luận - Nguyễn Quốc Cường

Cách Mạng Hoa Huệ ?

Đến nay thì lý do chính đằng sau đợt bắt bớ Linh mục Nguyễn Văn Lý và luật sư Nguyễn Văn Đài và luật sư Lê Thị Công Nhân đã được một tờ báo xuất bản tại Hà Nội công khai tiết lộ là để ngăn chặn việc quy tụ những lực lượng đối lập, và chuẩn bị đề cử một số người ra tự ứng cử vào Quốc hội. Đài Á châu Tự do đã trích dẫn một bản tin của một hãng thông tấn Đức cho biết là báo Gia đình và Xã hội của Việt Nam số ra ngày thứ Sáu mùng 9 tháng Ba, đã nói rõ mục đích của việc bắt giữ linh mục Nguyễn văn Lý, luật sư Nguyễn văn Đài, luật sư Lê thị Công Nhân là do “những người này dự định lợi dụng việc tự do ứng cử để đưa người ra tranh cử vào Quốc hội. Khi vào được rồi thì sẽ kêu gọi đẩy mạnh cải tổ Việt Nam về chính trị, kinh tế và xã hội.”

Tuy nhiên, lối giải thích của tờ báo nói trên thiếu tính thuyết phục, vì không có lý nào mà một chế độ có trong tay một guồng máy tổ chức bầu cử với nhiều kinh nghiệm về cách thức kiểm soát kết quả bầu cử như chế độ cầm quyền hiện nay tại Việt Nam lại phải lo ngại một vài người ứng cử viên có thể thao túng được cuộc bầu cử sắp tới, đến độ phải ra tay bắt họ để ngăn không cho họ ra tranh cử. Hơn nữa, ra ứng cử để kêu gọi đẩy mạnh cải tổ Việt Nam về chính trị, kinh tế và xã hội không thể coi là một “tội danh,” ngay cả dưới bộ luật hình sự hiện hành tại Việt Nam.

Một lý do dễ chấp nhận hơn là nhiều khi, Hà Nội có thể đã tỏ ra lo ngại những phản ứng dây chuyền mà nhóm người này có thể phát động trong quần chúng, sau khi kết quả cuộc bầu cử quốc hội được công bố, với nhiều chứng cứ cho thấy là đã có những sự gian lận trong tiến trình bầu cử và kiểm phiếu, như vẫn thường xẩy ra trong các cuộc bầu cử trước đây. Vào đầu thập niên 2000, hiện tượng này đã xẩy ra tại các nước trong khối Liên Xô cũ và được thế giới biết đến như các cuộc “Cách Mạng Mầu Hoa.”

Ngoài ra, ngay trong nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam, cũng đã có nhiều dấu hiệu cho thấy là hiện nay, mâu thuẫn giữa phe “Nhà Nước” chủ trương cải tổ và phe “Đảng” chống cải tổ ngày càng sâu đậm, và môi trường quốc hội đã trở thành một mặt trận để cho hai bên bành trướng thế lực và chuẩn bị đối phó với chính trường thời mở cửa. Hiện nay, thế lực bảo thủ trong đảng vẫn muốn đẩy lui những cuộc vận động cải thiện sinh hoạt quốc hội và chặn đường không muốn cho những thành phần chủ trương cải tổ sâu rộng tham gia vào diễn đàn quốc hội Khóa XII, qua việc tự ứng cử và vận động bầu cử công khai và cởi mở.

Mới đây, ông Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư đảng, đã lên tiếng chống lại đề nghị giảm bớt tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm để cải thiện quốc hội. Đề nghị cải tổ nói trên là một trong nhiều đề tài đã được đưa ra tranh luận trong thời kỳ tiến hành cuộc hiệp thương 1 vừa qua. Một sự nhượng bộ của phe bảo thủ trong cuộc hiệp thương 1 vừa qua là việc chấp nhận nâng số lượng người tự ứng cử lên 20% tổng số đại biểu quốc hội.

Qua cuộc tranh luận về cách thức bố trí nhân sự, được gọi là “cơ cấu,” phe bảo thủ chống lại chủ trương tăng số lượng đại biểu chuyên trách vì lo ngại việc này sẽ đưa đến sự gia tăng thành phần đại biểu độc lập hơn với đảng, và trở thành một khối thân chính trong quốc hội để hỗ trợ cho những quyết định và đường lối của Thủ tướng chính phủ, mà nhiều khi có thể đi ngược lại quyền lợi của đảng.

Một khối đại biểu thân chính quyền sẽ làm tăng khả năng giám sát và trừng phạt những thành phần tham nhũng hiện nay còn cố thủ trong một số cơ quan nhà nước và được đảng bao che. Do đó, một quốc hội với nhiều đại biểu chủ trương cải tổ triệt để sẽ là một hậu thuẫn rất mạnh cho Thử tướng Nguyễn Tấn Dũng, vì hiện nay ông là người giữ vai trò trưởng ban chỉ đạo chống tham nhũng. Một số vụ án tham nhũng vẫn chưa được xủ lý dứt điểm vì áp lực từ phía các thế lực đằng sau sợ liên lụy nếu để vụ án bị phanh phui tới cùng.

Tính đến ngày 13 tháng 3 vừa qua, đã có 84 người đến nộp hồ sơ tự ứng cử đại biểu quốc hội khóa XII, trên tổng số 192 người đến nhận hồ sơ tự ứng cử trên toàn quốc. Tuy nhiên, vì đã có sự giới hạn tỷ lệ đại biểu ‘độc lập” ở mức 20% tổng số đại biểu quốc hội khóa XII, cho nên số lượng người tự ứng cử không có một tầm ảnh hưởng lớn trong việc định hướng quốc hội tương lai của Việt Nam trong vòng 5 năm tới. Trong những điều kiện lý tưởng, số người tự ứng cử có thể có hy vọng được vào quốc hội khóa XII chỉ là một khối đại biểu “độc lập” tối đa là 100 người trên tổng số 500 đại biểu.

Trong số 100 người tự ứng cử giả định này, số người mà nhóm 8406 có thể huy động ra tranh cử chắc chắn không thể nào vượt quá con số chục, do đó, lý do được đưa ra để bắt những nhân vật nói trên, có thể đã không nhắm vào hoạt động dự định của họ trước bầu cử, mà có thể đã nhắm vào việc ngăn chặn những việc họ có thể phát động, sau khi kết quả cuộc bầu cử được tuyên bố vào cuối tháng Năm, trong trường hợp những vụ gian lận bầu cử, chắc chắn sẽ xẩy ra, đặc biệt là ở giai đoạn kiểm và đếm phiếu, được khám phá và đem phơi bầy ra công luận.

Nếu nhìn vào những chuyển biến chính trị tại các nước thuộc khối Liên Xô cũ trong những năm đầu của thập niên 2000, như cuộc chuyển đổi chế độ tại Georgia vào năm 2003, tại Ukraine vào đầu năm 2005 và tại Kyrgyzstan vào tháng 4 năm 2005, thì mẫu số chung của các cuộc cách mạng mang tên hoa và mầu này đều bắt nguốn từ những vụ xuống đường để phản đối hành vi gian lận bầu cử xẩy ra tại các nước này trước đó.

Cách mạng Hồng tại Georgia. Sau khi những vụ gian lận bầu cử quốc hội vào tháng 11 năm 2003 bị phanh phui ra dư luận, dân chúng đổ xô xuống đường phố Tbilisi để phản đối. Sau nhiều tuần lễ biểu tình trên đường phố, đoàn biểu tình đã kéo đến tòa nhà quốc hội và buộc tổng thống Eduard Shevardnadze phải từ chức. Phe đối lập, gồm đa số là giới trẻ, đã đoàn kết đằng sau ông Mikhail Saakashvili để đưa đến việc ông được bầu làm tổng thống thay ông Shevardnadze trong kỳ bầu cử tổng thống vào tháng Giêng 2004.

Cuộc cách mạng Cam tại Ukraine. Vào tháng Giêng 2005, sau khi kết quả cuộc bầu cử được tuyên bố, dư luận quần chúng bắt đầu nổi dậy chống lại kết quả cuộc bầu cử, đã bị tố cáo là có gian lận. Hàng chục ngàn người dân, phần đông là giới trẻ, đã tụ tập lại và đổ xuống đường phố Kiev để phản đối kết quả cuộc bầu cử này. Những cuộc biểu tình kéo dài hàng tuần đã ép buộc Tổng thống Kuchma phải nhượng bộ và cuộc bầu cử sau đó đã đưa ông Viktor Yushchenko lên cầm quyền.

Cuộc cách mạng Tulip tại Kyrgyzstan. Cuộc cách mạng tại đây khởi phát vào tháng 3 năm 2005, cũng sau khi cuộc bầu cử quốc hội đã bị dư luận tố cáo là có gian lận. Những cuộc xuống đường phản đối gian lận bầu cử do một phong trào thanh niên đứng lên khởi xướng ngay sau khi kết quả cuộc bầu cử được công bố. Phong trào xuống đường phản đối kéo dài đã ép buộc Tổng thống Akayev phải từ chức và nhường quyền cho cựu thủ tướng Kurmanbek Bakiyev. Đó là chưa kể đến trường hợp gian lận bầu cử đã đưa đến những vụ xuống đường làm chuyển đổi chế độ tại Đông Đức, Lithuania và tại Serbia.

Tại Việt Nam hiện nay, một vài dấu hiệu của một trạng thái đa nguyên chính trị đã ẩn hiện trong môi trường chính trị đang tiến dần vào cuộc bầu cử quốc hội sắp tới. Mặc dầu chưa thể nói đến những “Liên danh Hoa Sen,” “Liên danh Hoa Huệ,” chính thức ra tranh cử với sự hỗ trợ của các khối cử tri được tập hợp và tổ chức lại thành những đoàn thể áp lực, tiềm năng đó là một thực tế mà “phe Đảng” có thể đã nhận diện ra được và muốn ngăn chặn. Vấn đề đối với họ là làm sao tránh khỏi kịch bản một cuộc “Cách Mạng Hoa Huệ,” nếu vẫn muốn tiếp tục chống lại những nỗ lực quản lý tiến trình thay đổi trong thời mở cửa.

Tuesday, March 6, 2007

Phân Tích Thời Cuộc - Lê Phan


Chỉ có sáu tháng để khỏi thất bại ở Iraq?

Đó là kết luận của một toán sĩ quan cao cấp hiện là cố vấn cho Tướng David Petraeus, chỉ huy trưởng lực lượng Hoa Kỳ ở Iraq. Theo các vị sĩ quan này, nếu trong thời gian sáu tháng đó không có hiệu quả trông thấy, thì chúng ta sẽ chứng kiến sự suy sụp ủng hộ từ các chính trị gia và quần chúng Hoa Kỳ, và triển vọng những chiếc trực thăng di tản trên Green Zone, khu an toàn của lực lượng Hoa Kỳ, sẽ trở thành sự thực.

“Bộ tham mưu Baghdad”

Nhóm các sĩ quan này, theo nhật báo The Guardian, xuất bản ở Anh, là những chiến binh lão luyện trong ngành chống phản loạn, bao gồm một số những nhân vật khá đặc biệt, và nhiệm vụ của họ là thực thi chiến lược “một con đường tiến lên” mà Tổng thống George W. Bush loan báo hôm 10 tháng 12 năm 2006.
Nhóm được mệnh danh là “Baghdad Brain Trust” này bao gồm nhiều kinh nghiệm cả về chiến đấu lẫn học vị. Trong số đó có Đại tá Peter Mansoor, chánh văn phòng của Tướng Petraeus, một cựu tư lệnh một sư đoàn cơ giới nhưng cũng có bằng tiến sĩ về lịch sử bộ binh; Đại tá R. McMaster, tác giả của một cuốn sách nổi tiếng chỉ trích chiến tranh Việt Nam cũng như chiến tranh Iraq và là một sĩ quan chỉ huy lỗi lạc của ngành chống khủng bố; Trung tá David Kilcullen, mượn từ quân đội Úc, một chuyên gia về Hồi giáo quá khích; và Đại tá Michael Meese, con trai của cựu bộ trưởng tư pháp Edwin Meese, vốn là thành viên của Nhóm Nghiên cứu Iraq.
Được biết trong suốt mấy tuần qua nhóm này đã làm việc ngày đêm để tìm cách giải quyết một số những vấn đề cố hữu trong một cuộc chạy đua với thời gian. Một cựu viên chức cao cấp của chính phủ Bush đã giải thích vấn đề của họ như sau “Họ biết họ đang làm việc với áp lực thời gian. Họ biết là đến mùa thu năm nay họ sẽ bắt đầu nghe nói nhiều đến “kế hoạch B”, một lối nói văn hoa để chỉ chuyện tháo chạy. Họ biết là cơ hội của họ chỉ có khoảng sáu tháng. Và họ cũng biết là tình hình sẽ ngày càng khó khăn hơn”. “Bầu không khí trong nhóm rất căng thẳng. Họ làm việc thâu đêm suốt sáng. Và uống rất nhiều tách nước trà trong các cuộc thảo luận với các nhóm Iraq,” viên chức trên giải thích. “Nhưng họ vẫn còn đang cố tìm ra một kế hoạch. Tổng thống muốn thấy có tiến bộ. Nhưng họ thì đang tự hỏi thật sự tổng thống muốn gì? Kế hoạch của họ thay đổi từng phút từng giờ để đáp ứng với nhu cầu chiến trường.”
Những trở ngại chính mà họ phải đối đầu bao gồm: Thiếu lính, liên minh quốc tế đang ngày càng tan rã, sự gia tăng bạo động ở miền nam Iraq một khi quân đội Anh rút lui, tinh thần sẽ bị ảnh hưởng một khi số tử vong gia tăng, và việc Washington hay Baghdad có thể mất tinh thần, bỏ cuộc.
Những vấn đề nan giải
Vấn đề khó khăn nhất là thiếu lính mặc dầu Tổng thống Bush đã cho tăng viện. Một sĩ quan Hoa Kỳ ở Iraq đã nhận xét “Chúng tôi không có đủ lính để làm cho ra lẽ một cuộc chiến chống phản loạn chứ đừng nói gì đến một đợt tăng quân quan trọng. Chữ “surge” thực ra là một từ dùng sai chỗ. Về chiến lược và chiến thuật, nào có phải là một sự tăng cường đúng nghĩa đâu”. Theo cuốn cẩm nang chiến trường mới của quân đội Hoa kỳ vừa được chính Tướng Petraeus sửa đổi, tỷ số tốt nhất giữa “binh sĩ và công tác” cho một chiến dịch đối với riêng thủ đô Baghdad đòi hỏi 120,000 binh sĩ. Tổng số quân lực, kể cả lực lượng Iraq khó tín nhiệm được, cũng chưa bằng con số đó. Bên ngoài Baghdad, sự thiếu hụt còn lớn hơn nhiều.
Thiếu tá John Nagel, một người tín cẩn của Tướng Petraeus và là đồng tác giả của cuốn cẩm nang, khi nói chuyện với Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở San Diego hôm tháng rồi đã giải thích “Việc tăng quân là điều tối cần thiết nếu chúng ta muốn chiến thắng... Tỷ số cứ một quân nhân cho 50 thường dân trong các khu chiến sự gay go nhất là tỷ số cần thiết để chiến thắng trong một cuộc chiến chống phiến loạn.”
Đã thế, vấn đề nhân sự thiếu hụt còn thêm trầm trọng hơn vì số nhân viên dân sự tình nguyện từ Ngũ Giác Đài, Bộ Tài chánh và Bộ Ngoại giao đang ngày một giảm. Hôm cuối tháng 2, Ngũ Giác Đài đã lên tiếng yêu cầu Bộ Ngoại giao đưa thêm nhân viên tới giúp đỡ, nhất là nhân viên cho chương trình tái thiết và các chương trình viện trợ dân sự mà Tổng thống Bush đã hứa.
Vấn đề thứ nhì là sự tan rã của lực lượng liên quân. Quyết định mới đây của Anh Quốc giảm thiểu quân số ở miền nam Iraq, cộng với sự rút lui sắp tới của một số các quốc gia đồng minh khác, càng làm cho toán của ông Petraeus lo ngại, nhất là khi Hoa Kỳ đang cố gắng lấy lại ưu thế ở Iraq. Việc gia tăng bạo động ở phía Nam là một chuyện chắc sẽ xẩy ra, nhất là khi một nhóm dân quân Shia thuộc đạo quân của giáo sĩ Moqtada al-Sadr bị đẩy ra khỏi Baghdad tìm về Basra. Các nguồn tin từ bộ quốc phòng Anh cho tờ Daily Telegraph biết là Hoa Kỳ sẽ có thể phải điều động thêm 6,000 binh sĩ xuống phía nam để thay thế cho lực lượng Anh.
Một vấn đề nữa cũng không kém phần quan trọng là vấn đề tinh thần quân sĩ. Với gia tăng đối đầu, số tử vong sẽ tăng vọt. Trong một thông điệp gửi đến binh sĩ khi nhậm chức, Tướng Petraeus đã ca ngợi sự hy sinh của họ và khuyến cáo là những tháng tới sẽ còn khó khăn hơn nữa. Ông nói “Chúng ta đang phục vụ ở Iraq trong một giai đoạn quyết liệt. Sánh vai cùng với các đồng đội người Iraq, chúng ta sẽ tổ chức một chiến dịch tối quan trọng để cải thiện an ninh cho dân chúng Iraq. Đây là chiến dịch một mất một còn”. Cho đến nay tinh thần của các quân nhân đang chiến đấu ở Iraq vẫn còn rất cao, nhưng chắc chắn là cuộc tranh cãi cùng sự gia tăng hoạt động của các nhóm phản chiến và sự thờ ơ của dân chúng rồi sẽ có ảnh hưởng đến tinh thần quân đội. Những vụ scandal như vụ bê bối ở Bệnh viện bộ binh Walter Reed cũng sẽ làm tinh thần quân sĩ thêm khó vững.
Trong khi đó, quân lực Hoa Kỳ cũng phải ngăn đừng cho chính phủ do phe Shia cầm đầu của Thủ tướng Nuri al-Maliki lợi dụng tình hình để củng cố vị thế, đẩy các nhóm Sunni vào bước đường cùng. Mặc dầu tuần rồi đã có được tiến bộ qua đạo luật chia sẻ tài nguyên dầu hỏa, hai phe Shia và Kurd vẫn tiếp tục chống lại việc giảm bớt chính sách loại trừ đảng Ba’ath vốn đã dẫn đến việc gạt người Sunni ra khỏi những chức vụ quan trọng. Nhóm của Tướng Petraeus nghĩ là chính phủ Iraq đã không làm đủ để đạt được mục tiêu hòa giải dân tộc mà Tổng thống Bush đã đề ra, mặc dầu họ cũng hiểu điều họ đòi hỏi ở ông Maliki là đối đầu với chính những ủng hộ viên của ông ta.
Nhưng có lẽ điều mà nhóm của Tướng Petraeus sợ nhất là ý chí chính trị ở Washington sẽ sụp đổ đúng vào lúc mà quân đội đang sắp đạt được một kết quả bộc phá trong cuộc chiến chống phản loạn, một điều đã từng xảy ra ở Việt Nam. Hơn thế, nếu đến lễ Lao Động (thứ hai đầu tiên của tháng 9, vốn là thời điểm của một năm mới chính trị của Hoa Kỳ), không thấy có hiệu quả của chiến dịch mới này thì Tổng thống Bush có thể mất quyền kiểm soát chính sách vì quốc hội, với đảng Cộng Hòa lúc đó cũng tìm cách “chạy tội” về hùa với phe Dân Chủ, sẽ buộc phải có một cuộc rút quân.
Nếu không thành thì sao?
Bà Sarah Sewall, một cựu phụ tá bộ trưởng quốc phòng dưới thời Tổng thống Clinton và nay là chuyên viên về bang giao quốc tế của viện đại học Harvard, đã tả Tướng Petraeus như là “một vị tướng tài ba và có thực lực”, nhưng cũng khuyến cáo là ông đang phải đối đầu với một tình huống “khó thắng”. Sự thiếu quân số có nghĩa là những điều mà chính Tướng Petraeus đã coi như là tối cần thiết, an ninh và chia sẻ công tác để giúp tạo khí phách cho dân chúng và thúc đẩy hòa giải dân tộc, không thể thực thi được. Trong khi đó lãnh đạo hoặc quá yếu hoặc tham nhũng ở Washington hay Baghdad cũng có thể làm ông không hoàn tất nổi nhiệm vụ.
Với sự lo ngại là những ngày cuối của cuộc chiến Iraq sắp gần kề, nhiều người bắt đầu so sánh Tướng Petraeus với Tướng Creighton Abrams, người lên thay thế Tướng William Westmoreland mà chiến dịch càn quét đã bị cuộc tấn công Mậu Thân chứng tỏ là hoàn toàn thất bại. Abrams là người đã chủ trương chiến lược “giải tỏa và đóng chốt” (clear and hold) của tướng Petraeus. Trong quân sử Hoa Kỳ, ông đã thua quân đội Bắc Việt vì Washington muốn “tháo chạy”, một sự có thể xảy ra cho Tướng Petraeus.
Nhưng ở một khía cạnh khác, Tướng Petraeus lại giống Đại tá John Paul Vann, một nhân vật đầy tự tin và gây nhiều tranh cãi được Neil Sheehan tả trong cuốn The Bright Shining Lie. Ông Vann là một người sẵn sàng nói lên những điều mình tin là đúng. Ông chết ở Việt Nam năm 1972. Tướng Petraeus đã từng bị đẩy về làm chỉ huy trưởng Trường Chỉ Huy Tham Mưu của quân đội Hoa Kỳ cũng chỉ vì cái tính nói thẳng.
Khi ra điều trần trước quốc hội hôm tháng Giêng, Tướng Petraeus đã nói rõ là vào cuối mùa hè năm nay ông sẽ báo cáo với Quốc Hội và nhân dân Hoa Kỳ, chứ không chỉ với Ngũ giác đài và Tổng thống về kết quả của công việc. “Tôi xin bảo đảm với quí vị là nếu tôi xác định được là chiến lược mới không thể thành công, tôi sẽ loan báo nhận xét đó,” ông nói. Thái độ này có thể giúp cho Tướng Petraeus có rất nhiều sức mạnh chính trị cũng như nhờ vậy khá nhiều quyền hành. Tòa Bạch Ốc hiện rất cần ông bởi nếu ông bỏ cuộc từ chức thì chính phủ sẽ không còn có hy vọng thuyết phục được ai về Iraq nữa. Nhưng theo bà Sarah Sewall thì Tướng Petraeus dầu sao chăng nữa cũng là một sĩ quan chứ không phải là một nhà dân cử, và ông sẽ không từ chức.
Nhưng sau cùng, tuy không phải là người ra chính sách mà chỉ là người thực hiện chính sách, ông Petraeus có thể là người mà theo bà Sewall sẽ đóng góp cho quân đội cũng như cho Hoa Kỳ không phải là qua chiến thắng mà qua việc nói lên sự thật về Iraq. Đó có thể là di sản của ông cho lịch sử Hoa kỳ. Nếu quả rồi sẽ như vậy thì ít nhất lần này “khi đồng minh tháo chạy” còn có một người dám đứng lên nói ra sự thật dầu là sự thật mất lòng.


Lê Phan

Tham luận - Nguyễn Quốc Cường

Những mẩu chuyện đằng sau một nghĩa trang

Lịch sự lập quốc của một số dân tộc cũng phải trải qua những thời kỳ nội chiến. Ngoài tình trạng phân chia lãnh thổ, cả lịch sử và lòng người cũng bị chia đôi trong những giai đoạn đó, do hậu quả của những nỗ lực xách động hận thù từ hai phía. Trong một vài trường hợp, như đối với Hoa Kỳ, con đường thống nhất lịch sử và lòng người lại đi qua một nghĩa trang.130 năm về trước, dân tộc Hoa Kỳ cũng bị chìm đắm trong một cuộc nội chiến đẫm máu vì khác biệt tư tưởng. Qua sự ngẫu nhiên của lịch sử, dân tộc Hoa Kỳ cũng đã trải qua một chuỗi ngày tháng Tư bi thảm. Cuộc chiến tranh Nam-Bắc khởi đầu vào ngày 12 tháng Tư 1861 và kết thúc vào ngày 9 tháng Tư 1865. Chỉ sáu ngày sau đó, vào ngày 14 tháng Tư, Tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát. Thảm kịch này đã kéo dài sự hận thù Nam-Bắc, và tình trạng chia rẽ địa phương tiếp tục bao trùm môi trường chính trị Hoa Kỳ trong thời kỳ tái thiết. Trong khi đó, về phía dân chúng, sau khi tiếng súng chấm dứt, những quả phụ và người mẹ chiến sĩ hai miền Nam-Bắc hằng năm vẫn lặng lẽ đến đặt hoa trên nấm mộ những người chồng, người con, đã hy sinh trong trận chiến. Trang sử nội chiến Hoa Kỳ chỉ bắt đầu khép lại trong lòng người dân vào một ngày tháng Tư, khi một nhóm quả phụ tử sĩ miền Nam tại thành phố Columbus, tiểu bang Missisippi, đã khởi động một phong trào đặt vòng hoa trên nấm mộ chiến sĩ cả hai miền Nam-Bắc, vào ngày 25 tháng Tư năm 1866. Cử chỉ nhân từ tự phát của nhóm phụ nữ này đã được ghi nhận qua những bài tham luận trên báo chí thời đó, và đã khởi xướng một phong trào tương tự lan rộng ra những thành phố khác. Vào năm 1868, tập tục này được chính phủ liên bang ghi nhận và chọn lựa ngày 30 tháng Năm năm đó làm ngày “Tảo mộ Chiến sĩ Trận vong”, một truyền thống trên toàn nước Mỹ, để ghi ơn các chiến sĩ thuộc mọi phía, đã bỏ mình vì tổ quốc và lý tưởng của họ.
Vào ngày nói trên, tại nghĩa trang quân đội Arlington trên bờ sông Potomac ở thủ đô Hoa Kỳ, Tướng James Garfield, cùng năm nghìn thân nhân tử sĩ đã đặt vòng hoa lên trên 20,000 ngôi mộ chiến sĩ Nam-Bắc hy sinh trong cuộc nội chiến, và khởi đầu cho một nghi lễ truyền thống sau này được gọi là ngày “Tưởng niệm Chiến sĩ Trận vong,” vào mỗi thứ Hai cuối cùng của tháng Năm. Kết cuộc, lòng nhân từ của những cá nhân đã chuyển hoá được tư duy của một tập thể. Từ đó, lịch sử Hoa Kỳ đã được thống nhất trở lại cùng với lòng người. Trở về Việt Nam, mới đây, nhân chuyến viếng thăm khu nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) cũ tại Biên Hòa, nhà báo Vi Túy cũng đã tường trình rằng “có một điều hết sức đặc biệt là có khá nhiều người dân sinh sống quanh đó, đã tự động sửa sang lại nhiều ngôi mộ”, trong số những ngôi mộ của các chiến sĩ Quân lực (QL) VNCH được an táng tại đó. Khi được nhà báo Vi Túy hỏi, “họ nói rằng đó là tấm lòng của họ đối với những tử sĩ”. Sự kiện này là một dấu hiệu nhỏ chứng tỏ rằng, đối với những người dân Việt bình thường, nghĩa tử vẫn là nghĩa tận. Trong khi đó, Quyết định số 1568/QĐ - TTg của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 hecta đất khu nghĩa trang Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương do Quân khu 7, Bộ Quốc Phòng quản lý sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế, xã hội tỉnh Bình Dương”, đã gây nhiều phản ứng bất lợi trong dư luận người Việt tại hải ngoại, mặc dầu cũng có vài phản ứng thuận lợi, kể cả từ phía những người cựu chiến binh trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, như đã được thuật lại qua một bản tin của đài BBC.Cho đến nay, những thông tin được đăng tải trên các cơ quan truyền thông về việc này chưa cung ứng đủ dữ kiện để cho thấy một bức tranh toàn diện về những diễn tiến đưa đến quyết định nói trên. Vì tính chất tế nhị và phức tạp của vấn đề đối với tất cả mọi phía liên hệ, cho nên có lẽ sẽ chưa thể có được một bực tranh toàn diện và chính thức về vấn đề này. Tuy nhiên, một số sự kiện trong quá khứ cũng cho thấy rằng tiến trình chuẩn bị cho quyết định này đã xẩy ra trước đây khá lâu, vì còn liên hệ đến những trao đổi ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Hoa Kỳ muốn gia tăng quan hệ với Việt Nam trong nhiều lãnh vực khác nhau, và phải tìm cách giải quyết êm đẹp những vấn đề còn tồn tại giữa chính quyền Việt Nam và khối người Việt hải ngoại, nay đã trở thành một khối cử tri người Mỹ gốc Việt. Một giải pháp cho vấn đề đòi hỏi sự tương nhượng của mọi phía liên hệ. Ngoài yếu tố chính trị, vấn đề còn chứa đựng một yếu tố tâm lý, là giữa chính quyền Việt Nam và khối người Mỹ gốc Việt, ai sẽ đi bước trước trong tiến trình thiết lập quan hệ, và bằng cách nào. Vào đầu năm 2001, nhân một cuộc tiếp xúc với cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Houston để trình bầy diễn tiến quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, ông Dennis G. Harter, Phó đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam vào thời đó, đã tiết lộ riêng với một thân hữu người Việt tại đây là vào thời kỳ thủ tướng Võ Văn Kiệt còn tại chức, tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã có những cuộc thảo luận thăm dò với các giới chức trong chính quyền tại Hà Nội về việc có thể tiếp xúc với người đại diện phía quân đội VNCH để thảo luận về việc trùng tu nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Ông Harter cũng cho biết thêm rằng cần phải chọn lựa một nhân vật nào “có thể chấp nhận được” (acceptable) cho cả phía Hà Nội và phía cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Vào thời đó, ông Harter đã không xác nhận, tuy cũng không phủ nhận, một câu hỏi là giới chức chính quyền Việt Nam ông tiếp xúc có phải là cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt hay không. Trong buổi nói chuyện này, ông Harter cũng đã đề cập đến tên một số tưỡng lãnh trong QLVNCH, trong đó có tướng Nguyễn Cao Kỳ, như là một nhân vật có thể được đưa ra để thăm dò dư luận trong-ngoài. Ông Harter cho biết thêm rằng, trước khi tên ông Nguyễn Cao Kỳ được nêu lên, đã có một số người Việt hải ngoại thuộc các tổ chức ngoài chính phủ cũng đã âm thầm thúc đẩy việc trùng tu nghĩa trang quân đội Biên Hòa, và họ đã đặt vấn đề này với các giới chức chính quyền Việt Nam hoàn toàn trên căn bản của một việc làm có đạo lý. Sau này, có tin cho biết rằng ông Nguyễn Cao Kỳ đã làm thủ tục xin chiếu khán vào Việt Nam từ cuối năm 2001, và mãi đến năm 2004 mới được cấp giấy vào Việt Nam. Một bài báo trên tờ New York Times tường trình chuyến đi của ông Nguyễn Cao Kỳ cũng đã nhận xét rằng, cuộc viếng thăm Việt Nam của ông Kỳ, “mặc dầu là không chính thức,” cũng “đã được một vài sự khuyến khích ngầm từ phía chính quyền Bush”. Bài báo cũng nhắc đến một cuộc gặp gỡ giữa ông Nguyễn Cao Kỳ và ông thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Đình Bin tại San Francisco vào tháng 7 năm 2003 để thảo luận về việc ông Kỳ về Việt Nam. Khi trở lại Mỹ sau chuyến đi đầu tiên về Việt Nam, ông Nguyễn Cao Kỳ đã tuyên bố với báo chí rằng chính phủ Việt Nam đã thỏa thuận chỉnh trang lại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Ông Kỳ cũng còn tuyên bố rằng ông sẽ tổ chức một phái đoàn cựu quân nhân VNCH để về nghĩa trang quân đội Biên Hòa làm một buổi lễ dâng hương cầu siêu cho các tử sĩ tại đây. Tuy nhiên, dự tính này cũng đã gặp trở ngại và không thấy ông Kỳ nhắc đến chuyện này trong những chuyến đi sau. Cho đến nay, nhịp cầu mà ông Kỳ dự tính thiết lập trong nước coi như đã không thành, trong khi những lời tuyên bố của ông Kỳ với báo chí đã đốt cháy những nhịp cầu mà ông hy vọng tạo được với bên ngoài.Cũng có nguồn tin cho biết rằng nhân một chuyến viếng thăm nói trên, trong lúc cả hai người đều có mặt tại Hà Nội, ông Nguyễn Cao Kỳ và cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt đã hẹn gặp nhau tại Hà Nội, tuy nhiên sau đó, ông Kiệt đã bay vào trong Sài Gòn và chỉ gặp ông Kỳ tại đây. Lời giải thích của ông Kỳ về sự kiện này cho thấy rằng ông Kiệt không muốn cuộc gặp gỡ với ông Kỳ xẩy ra tại Hà Nội. Một nguồn tin đáng tin cậy ở trong nước cho biết rằng hiện nay vẫn còn khá nhiều phe nhóm, đặc biệt là trong giới quân đội, không muốn việc này xẩy ra, và những trở ngại trong việc xúc tiến những dự định chỉnh trang nghĩa trang quân đội Biên Hòa sẽ khó có thể được giải tỏa, nếu khu vực này vẫn nằm dưới sự quản trị của quân đội. Vẫn theo nguồn tin này, quyết định của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tháo gỡ trở ngại nói trên.

Monday, March 5, 2007

Bình Luận Thời Cuộc - Lê Mạnh Hùng


Một thay đổi lớn trong chính sách của Mỹ tại Iraq


Thứ ba vừa qua, bộ ngoại giao Mỹ loan báo rằng Hoa Kỳ sẽ cùng với các nước khác tham gia vào những cuộc đàm phán cấp cao với Iran và Syria về tình hình Iraq vào mùa xuân năm nay, lần đầu tiên mà có một cuộc gặp gỡ như vậy giữa chính quyền Bush và hai nước kia từ ba năm nay. Đây là một thay đổi lớn trong chính sách ngoại giao của tổng thống Bush mà từ trước tới nay vẫn bác bỏ các đề nghị tiếp xúc trực tiếp ở cấp cao với Damascus và Tehran.
Theo thông cáo, phiên họp đầu tiên sẽ thực hiện ở cấp đại sứ vào đầu tháng ba. Một phiên họp thứ hai, cấp bộ trưởng sẽ được tổ chức vào tháng tư và Bộ Ngoại Giao Mỹ hôm thứ ba vừa qua đã tiết lộ rằng có khả năng sẽ có những cuộc đối thoại trực tiếp với các bộ trưởng của Iran, một điều mà chính quyền Bush vẫn từ chối không chấp nhận cho đến khi Iran ngưng chương trình làm giầu uranium của họ.
Tuy rằng những phiên họp này chỉ tập trung vào vấn đề làm sao ổn định tình hình tại Iraq, nhưng chúng cũng đẩy hé mở cánh cửa dẫn đến các cuộc thương thuyết ngoại giao giữa Hoa Kỳ với Iran và Syria. “Chúng tôi sẽ có mặt” đó là tuyên bố của Sean McCormack, phát ngôn nhân bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Khi được hỏi về liệu có thể có những cuộc gặp gỡ song phương với Iraq hay không, ông McCormack cho biết “Chúng ta phải đợi xem. Vấn đề chính là Iraq. Chính phủ Iraq là người triệu tập hội nghị này. Chúng tôi đón mừng sáng kiến đó và sẽ đến tham dự”.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Condoleeza Rice khi đưa ra thông báo về các phiên họp này cũng tuyên bố “Tôi xin chỉ ra rằng chính phủ Iraq đã mời Syria và Iran tham dự cả hai phiên họp vùng này. Chúng tôi hy vọng rằng tất cả các chính phủ hãy nắm lấy cơ hội này để cải thiện quan hệ với Iraq - và tham gia vào việc tạo ra hòa bình và ổn định trong vùng.” Bà cũng lưu ý thêm rằng chính Nhóm Nghiên Cứu về Iraq (Iraq Study Group) cầm đầu bởi cựu ngoại trưởng James Baker và cựu dân biểu Lee Hamitlton cũng đã khuyến cáo mời Syria và Iran đến tham dự những hội nghị các nước láng giềng như vậy. Nhưng khi nhóm này đưa ra khuyến cáo đó vào tháng chạp năm ngoái, ông Bush đã bác bỏ.
Theo thông cáo của chính phủ Iraq, thì Iraq đang chuẩn bị để tổ chức phiên họp đầu tiên vào khoảng giữa tháng ba tại Baghdad, và danh sách những nước được mời tham dự bao gồm các nước thành viên của Liên Đoàn Arab (Arab League) và năm thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc - Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Trung Quốc và Nga. Theo một viên chức bộ ngoại giao Iraq thì Syria sẽ được đại diện bởi ông Ahmed Arnous, phụ tá ngoại trưởng Syria, còn các nước Arab khác và Iran thì hiện vẫn còn chưa cho biết rõ chi tiết. Về phía Mỹ, nguồn tin từ Washington cho biết chính phủ Mỹ sẽ cử tham gia phiên họp này một số viên chức cao cấp nhất trong bộ ngoại giao tỷ như David M.Satterfield, cố vấn cao cấp của bộ ngoại giao về Iraq. Phiên họp thứ nhì ở cấp bộ trưởng sẽ được tổ chức vào đầu tháng tư nhưng hiện chưa biết là sẽ được tổ chức tại nơi nào. Bà ngoại trưởng Rice sẽ đích thân tham dự phiên họp thứ nhì cấp bộ trưởng tổ chức vào đầu tháng tư.
Tuyên bố từ Đan Mạch nơi ông hiện đang công du, ngoại trưởng Iraq, Hosnyar Zebari nói rằng việc Hoa Kỳ chấp nhận đối thoại trực diện với Iran và Syria, hai nước mà Washington vẫn tố cáo là tìm cách tạo bất ổn tại Iraq là một biến chuyển nhiều ý nghĩa, Ông Zebari nói “Iraq đã trở thành một vấn đề gây chia rẽ trong vùng. Nhưng Iraq cũng có thể giúp đỡ những nước láng giềng nữa. Nó có thể cung cấp một cơ sở cho họ giaỉ quyết những bất đồng”
Quyết định tham dự các phiên họp này của Mỹ đã xảy ra đúng vào lúc Michael McConnell, giám đốc tình báo quốc gia mới của Mỹ ra điều trần trước Quốc Hội đã công nhận với các thượng nghị sỹ rằng tình hình tại Iraq “đang chuyển biến theo chiều hướng đen tối” và rằng từ ngữ “nội chiến” đã diễn tả đúng tình trạng này. Nhưng quyết định tham dự trên của chính quyền Bush có vẻ cũng là một phần của một chiến lược mới, tăng cường các hoạt động ngoại giao trong lúc đồng thời gia tăng những chỉ trích về các hoạt động của Iran tại Iraq và đe dọa phản ứng quân sự đối với Iran.
Mỹ đã gởi hai hàng không mẫu hạm cùng với các chiến hạm yểm trợ và bảo vệ tới tuần tiễu vùng bờ biển phía tây của Iran trên vịnh Ba Tư. Trong những tuần qua, chính quyền Bush cũng gia tăng những lời tố cáo Iran, quy trách nhiệm cho lực lượng Vệ Binh Cách Mạng của Iran là đã vũ trang và huấn luyện cho những phiến quân Shia tại Iraq và phải cịu trách nhiệm về cái chết của nhiều binh sỹ Mỹ và Anh, bị chết vì những trái mìn hiện đại đặt trên các nẻo đường tuần tiễu của các lực lượng này. Mỹ cũng gia tăng áp lực với Iran tại Liên Hiệp Quốc. Washington đòi hỏi Hội Đồng Bảo An phải mở rộng thêm các trừng phạt đối với Iran vì nước này đã không chịu thi hành một nghị quyết của Liên Hiệp Quốc để ngưng làm giầu uranium. Tương tự như vậy Syria cũng bị tố cáo là đã che chở cho những lãnh tụ phiến quân Iraq sinh sống tại nước mình và cho phép các vũ khí cùng các chí nguyện quân chống Mỹ ngoại quốc đi quá cảnh nước mình để sang Iraq.
Trong khi đó, những dự tính của những người Dân Chủ nhằm giới hạn quyền của ông Bush trên lãnh vực chiến tranh và buộc ông Bush phải thay đổi chính sách tại Iraq đang gặp trở ngại vì những chia rẽ bên trong đảng chung quanh vấn đề phải hành động quyết liệt đến mức nào.
Một nhóm thượng nghị sỹ Dân Chủ hiện đang thúc đẩy Thượng Viện hủy bỏ nghị quyết thông qua năm 2002 cho phép ông Bush tấn công Iraq và đưa ra một nghị quyết mới giới hạn nhiệm vụ của quân đội Mỹ và ra lệnh phải bắt đầu rút quân vào mùa hè này. Tại Hạ Viện, một dân biểu cựu chiến binh có nhiều uy tín đang vận động dùng quyền hạn tài chánh của Quốc Hội để buộc ông Bush phải cắt giảm sự can thiệp của Mỹ vào Iraq. Cả hai dự tính này có vẻ đều không có đủ sự ủng hộ cần thiết để được thông qua. Tuy nhiên theo ông Harry Reid, trưởng khối đa số Thượng Viện, thì vấn đề Iraq cũng sẽ vẫn còn cho đến khi Mỹ rút khỏi nước này. Ông Reid nói “Iraq cũng vẫn sẽ còn đó, chỉ là một vấn đề thời gian trước khi chúng tôi lại quay trở lại việc này” Và ông dự tính là khoảng thời gian này sẽ tính “bằng ngày chứ không phải là bằng tuần” trước khi Thượng Viện quay trở lại bàn thảo vấn đề này.
Phải chăng những sáng kiến ngoại giao mới của chính phủ Bush là một đòn “phủ đầu” đối với sự chống đối ở quốc hội cũng như các sự chống đối khác?


Lê Mạnh Hùng

Quan Điểm - Toàn Chân


Tại sao Hà Nội sợ những người chống đối?

Suốt từ ngày 24 tháng 2 đến nay, liên tiếp nhiều tin, kể cả tin từ các cơ quan ngôn luận của chính quyền Hà Nội, đã được đưa ra về việc chính quyền đột nhiên tới Nhà Chung ở Huế, vây bắt Linh mục Nguyễn Văn Lý, rồi đưa ông đi “an trí” ở nhà thờ giáo xứ Bến Củi. Ở một khía cạnh nào đó, việc tấn công này nằm trong “đợt tổng tấn công” mới của Hà Nội vào các nhân vật bất phục, nhưng ở một khía cạnh khác, sự công khai tố cáo và vu khống cho Linh mục Lý đã đặt ra câu hỏi là tại sao đột nhiên Hà Nội “sợ” các nhà tranh đấu cho dân chủ đến thế?

Trước hết phải nói là vụ đàn áp Linh mục Lý lần này quyết liệt và công khai hơn mọi cuộc đàn áp từ trước đến nay. Theo tin tức từ các hãng thông tấn ngoại quốc có mặt ở Việt Nam thì lần đầu tiên, vụ lục soát và tịch thâu tài sản của Cha Lý đã được công khai chiếu trên truyền hình. Theo Thông tấn xã Reuters, những hình ảnh trên truyền hình cho thấy cảnh công an lục soát văn phòng của Linh Mục Lý, tịch thâu 200 kg (440lb) tài liệu, nhiều máy vi tính, máy in, điện thoại di động và hơn 130 thẻ điện thoại di động. Ngay sau đó, báo chí đồng loạt đưa ra những lời “buộc tội”.

Hầu hết báo chí đăng tải bản tin của thông tấn xã nhà nước trong đó nói rằng “Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên-Huế đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Lý về tội: Tuyên truyền chống đối Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo Điểm C, Khoản 1, Điều 88 - Bộ luật Hình sự. Cùng ngày, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế cũng ra quyết định thay đổi nơi quản chế hành chính đối với bị can Lý.”

Riêng báo Nhân Dân đã để nguyên nửa trang để viết một bài bình luận về vụ này. Bài báo của cơ quan ngôn luận chính thức của đảng Cộng sản Việt Nam không những đã vênh vang khoe thành tích vào được Tổ chức Mậu dịch Thế giới WTO và được các quốc gia Á châu đề cử vào ghế không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, còn lớn tiếng khẳng định “Không chỉ đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bè bạn quốc tế hân hoan, tự hào về một Việt Nam hôm nay mà cả những người trước đây còn có cái nhìn thiên lệch, thiếu hiểu biết về con đường đi lên của dân tộc ta cũng đã tin tưởng và kỳ vọng về một tương lai tươi sáng của Tổ quốc ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng CS Việt Nam.” (Sic) Viện dẫn đó như là một lý do, Nhân Dân lên án Linh mục Nguyễn Văn Lý “Vậy nhưng vẫn còn một số đối tượng cực đoan cố tình nhắm mắt, bưng tai trước những gì Tổ quốc và nhân dân ta đạt được, cấu kết với các phần tử phản động ở nước ngoài, phá hoại sự nghiệp xây dựng, phát triển của đất nước, phản bội lại lợi ích của toàn dân tộc. Cầm đầu và chủ mưu trong nhóm này ở Thừa Thiên-Huế là Nguyễn Văn Lý.” Sau khi kể lể “tội danh” của Cha Lý và nói đến “sự khoan hồng” của nhà nước cho phép Cha Lý được trở về sống quản thúc tại Nhà Chung Huế, tờ Nhân Dân đã kết tội Cha Lý như sau “Nghiêm trọng hơn, từ đầu năm 2006, Nguyễn Văn Lý đã móc nối, câu kết với một số đối tượng cơ hội chính trị, cực đoan phản động trong và ngoài nước để cho ra đời cái gọi là ‘Tuyên ngôn kêu gọi quyền thành lập và hoạt động của các đảng phái tại Việt Nam’. Sau đó là bản ‘Tuyên ngôn tự do dân chủ cho Việt Nam năm 2006’, kêu gọi ký tên tham gia để tập hợp lực lượng lật đổ chính quyền. Ngày 8-4-2006, Nguyễn Văn Lý thành lập nhóm 8406 do Nguyễn Văn Lý cùng với Ðỗ Nam Hải ở thành phố Hồ Chí Minh và Trần Anh Kim ở Thái Bình làm đại diện ba miền. Chúng mạo danh hơn 1.980 người trong danh sách 2.000 người ký tên vào bản "tuyên ngôn" này.”

Một cơ quan ngôn luận của một chế độ tự hào đang vững mạnh mà đã không những “chụp mũ” một số các nhân vật bất đồng chính kiến nhỏ nhoi về những “tội tày trời” như “kêu gọi tập hợp lực lượng để lật đổ chính quyền” thì quả là một điều khó hiểu. Hơn thế, Nhân Dân còn dám nói là các vị này “mạo danh 1980 người trong số 2,000 người ký tên vào bản tuyên ngôn” chống chế độ, một lời vu khống khi những người ký tên đã công khai đưa tên tuổi, địa chỉ và sẵn sàng nhận hành vi bất khuất đó.

Có lẽ chính trong sự vu khống và nói láo này chúng ta đã hiểu rõ hơn một phần nào lý do tại sao Hà Nội “sợ” những người bất phục như Cha Lý. Mặc dầu không có phương tiện, không có vũ khí, những nhân vật này đã thu hút được một số đông đảo người dân bình thường sẵn sàng ký tên vào một Tuyên ngôn đòi hỏi tự do dân chủ. Hơn thế, Hà Nội cũng hiểu là một chế độ như chế độ của họ không thể có thay đổi hòa bình mà chỉ có thể thay đổi qua một cuộc cách mạng, dầu là cách mạng không đổ máu như Cách Mạng Nhung.

Phong trào dân chủ qua hoạt động của những người như Cha Lý đã làm cho Hà Nội thêm lo sợ vì họ đã “học” được bài học Đông Âu. Hà Nội chưa quên hoạt động của những người như kịch tác gia Vaclav Havel, người mà qua Tuyên ngôn của Hiến chương 77, viết ra để một phần chống lại việc một ban nhạc psychedelic bị cầm tù, đã đứng ra lên án chế độ. Ông đã dùng ngòi bút để giúp hình thành một phong trào chống đối, để nói lên “quyền hành của những người không có quyền hành” (Power of the Powerless), và tìm ý nghĩa cho một thời Hậu chủ nghĩa độc tài tòan trị (Post totalitarianism), trong đó con người có thể “sống trong sự nói láo”. Ngay cả khi mạnh nhất, khối Hiến chương 77 cũng không lớn lắm, và ảnh hưởng của họ chỉ nằm trong giới trí thức, nhưng gặp thời, khối này đã nhanh chóng bành trướng thành đảng Civic Forum. Và thời điểm gia nhập WTO cũng có thể là lúc mà chế độ ở Hà Nội đang gặp lúc giao thời, khi phải thay đổi vì áp lực của bên ngoài.
Ngày nay, đối với Hà Nội, những nhóm như khối 8406 chẳng khác gì nhóm Hiến chương 77 đối với chế độ cộng sản ở Đông Âu, những mầm móng mà gặp thời có thể sẽ trở thành những lực lượng lật đổ chế độ. Và đó là lý do Hà nội sợ. Nhưng sau cùng, như ông Vincent Brossel, đại diện của Tổ chức Phóng Viên Không Biên giới đã nhận xét: “Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để cổ võ cho các quyền tự do của họ, nhưng chúng tôi biết rằng một giải pháp sẽ đến từ trong nội bộ Việt Nam, hy vọng một ngày nào đó, đảng đương quyền tại Việt Nam sẽ nhận thức được rằng dân chủ không phải là một điều nguy hiểm, mà là một quyền tự nhiên của người dân Việt Nam.”

Toàn Chân